arrow-menu

Lạm phát là gì?

Lạm phát là sự suy giảm sức mua của tiền tệ theo thời gian. Ước tính định lượng về tốc độ suy giảm sức mua có thể được phản ánh trong sự tăng giá của một giỏ hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn của một nền kinh tế trong một khoảng thời gian nào đó. Sự tăng giá thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm, giá tăng bao nhiêu phần trăm có nghĩa là một đơn vị tiền tệ có sức mua ít hơn so với thời kỳ trước bấy nhiêu phần trăm. Trái ngược với lạm phát là giảm phát, điều này xảy ra khi sức mua của tiền tăng và giá cả hàng hóa giảm.

Đọc thêm

Được viết bởi: PiggyyPedia VN

Ý chính cần nhớ

  • Lạm phát là tỷ lệ phản ánh giá trị của tiền tệ giảm xuống và do đó, mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ tăng lên.
  • Lạm phát thường được chia thành ba loại: Lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy và lạm phát nội sinh.
  • Các chỉ số lạm phát được sử dụng phổ biến nhất là Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index – CPI) và Chỉ số giá bán buôn (Wholesale Price Index – WPI).
  • Lạm phát có thể được nhìn nhận tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào từng góc nhìn và tốc độ lạm phát.
  • Những người có tài sản hữu hình, như tài sản hoặc hàng hóa dự trữ, có thể xem lạm phát làm tăng giá trị tài sản của họ.

 

Hiểu về lạm phát

 

Mặc dù có thể dễ dàng đo lường sự thay đổi giá của các sản phẩm riêng lẻ theo thời gian, nhưng nhu cầu của con người không phải chỉ bao gồm một hay hai sản phẩm. Mỗi cá nhân có nhu cầu sử dụng nhiều và đa dạng các sản phẩm, dịch vụ để có một cuộc sống thoải mái. Các sản phẩm, dịch vụ bao gồm các loại hàng hóa như ngũ cốc thực phẩm, kim loại, nhiên liệu, các tiện ích như điện và giao thông, và các dịch vụ như chăm sóc sức khỏe, giải trí,…

 

Tỷ lệ lạm phát nhằm mục đích đo lường tác động tổng thể của việc thay đổi giá đối với một loạt sản phẩm và dịch vụ, là con số duy nhất đại diện sự gia tăng mức giá của hàng hóa và dịch vụ của một nền kinh tế trong một khoảng thời gian.

 

Khi một loại tiền tệ mất giá trị, giá cả tăng lên và nó mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Sự suy giảm sức mua này tác động đến chi phí sinh hoạt chung của cộng đồng, cuối cùng dẫn đến sự giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế học đạt được đồng thuận rằng là lạm phát kéo dài xảy ra khi sự tăng cung tiền của một quốc gia vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế.

 

Để chống lại điều này, cơ quan quản lý tiền tệ của một quốc gia (thường là ngân hàng trung ương) sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để quản lý cung tiền và tín dụng nhằm giữ lạm phát trong giới hạn cho phép và giúp nền kinh tế vận hành trơn tru.

 

Về mặt lý thuyết, chủ nghĩa tiền tệ là một lý thuyết phổ biến giải thích mối quan hệ giữa lạm phát và cung tiền của một nền kinh tế. Ví dụ, sau cuộc chinh phục của người Tây Ban Nha đối với các đế chế Aztec và Inca, một lượng lớn vàng và đặc biệt là bạc đã chảy vào các nền kinh tế Tây Ban Nha và các nước châu Âu khác. Vì cung tiền tăng nhanh, giá trị của tiền giảm xuống, góp phần làm tăng nhanh giá cả hàng hóa, dịch vụ…

 

Lạm phát được đo lường theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào loại hàng hóa và dịch vụ được xem xét, và nó đối lập với giảm phát – sự sụt giảm chung xảy ra đối với giá cả hàng hóa và dịch vụ khi tỷ lệ lạm phát giảm xuống dưới 0%.

 

Nguyên nhân của lạm phát

 

Sự gia tăng cung tiền là căn nguyên của lạm phát, mặc dù điều này có thể xảy ra thông qua các cơ chế khác nhau trong nền kinh tế. Các cơ quan quản lý tiền tệ quốc gia có thể tăng cung tiền bằng cách:

  • In và cho tiền người dân
  • Phá giá tiền tệ (giảm giá trị) đồng tiền pháp định.
  • Cho vay tiền mới tồn tại dưới dạng tín dụng, tài khoản dự trữ thông qua hệ thống ngân hàng, bằng cách mua trái phiếu chính phủ từ các ngân hàng trên thị trường thứ cấp (cách phổ biến nhất)

 

Trong tất cả các trường hợp này, tiền bị mất sức mua. Các cơ chế dẫn đến lạm phát có thể được chia thành ba loại: lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy và lạm phát nội sinh.

 

Hiệu ứng Cầu kéo

Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi cung tiền và tín dụng tăng lên kích thích tổng cầu cho hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế tăng nhanh hơn so với khả năng sản xuất của nền kinh tế. Tăng nhu cầu dẫn đến tăng giá cả.

 

Khi các cá nhân có nhiều tiền hơn, tâm lý tiêu dùng tích cực dẫn đến chi tiêu nhiều hơn và nhu cầu cao này kéo giá cả cao hơn. Nó tạo ra khoảng cách cung cầu với nhu cầu cao hơn và nguồn cung kém linh hoạt, dẫn đến giá cả tăng cao.

 

Hiệu ứng Chi phí đẩy

Lạm phát do chi phí đẩy là kết quả của sự gia tăng giá do các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Khi nguồn cung tiền và tín dụng được bổ sung vào thị trường hàng hóa hoặc thị trường tài sản khác và đặc biệt nếu đi kèm với một cú sốc tiêu cực đối với nguồn cung các mặt hàng chủ yếu, chi phí cho tất cả các loại hàng hóa trung gian sẽ tăng lên.

 

Sự tăng giá của mặt hàng trung gian này sẽ dẫn đến chi phí của dịch vụ hoặc sản phẩm hoàn thiện trở nên cao hơn và làm tăng giá tiêu dùng. Ví dụ, khi sự gia tăng nguồn cung tiền tạo ra sự bùng nổ đầu cơ về giá dầu, chi phí năng lượng của tất cả các loại hình sử dụng có thể tăng lên và góp phần làm tăng giá tiêu dùng, được phản ánh trong các thước đo lạm phát khác nhau.

 

Lạm phát nội sinh

Lạm phát nội sinh có liên quan đến kỳ vọng thích ứng, khi mọi người kỳ vọng tỷ lệ lạm phát hiện tại sẽ tiếp tục được giữ ổn định trong các năm tiếp theo. Khi giá hàng hóa và dịch vụ tăng lên, người lao động và những người khác kỳ vọng rằng chúng sẽ tiếp tục tăng trong tương lai với tốc độ tương tự và họ yêu cầu thêm chi phí hoặc tiền lương để duy trì mức sống. Tiền lương tăng lên dẫn đến chi phí hàng hóa và dịch vụ cao hơn, và vòng xoáy tiền lương – giá cả này tiếp tục diễn ra khi một yếu tố là nguyên nhân của yếu tố kia và ngược lại.

 

Các loại chỉ số giá

 

Tùy thuộc vào nhóm hàng hóa và dịch vụ được chọn, nhiều loại giỏ hàng hóa được tính toán và theo dõi dưới dạng chỉ số giá. Các chỉ số giá được sử dụng phổ biến nhất là Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và Chỉ số giá bán buôn (WPI).

 

Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số CPI là thước đo xem xét mức giá bình quân của một giỏ hàng hóa và dịch vụ phục vụ nhu cầu chính của người tiêu dùng (mỗi sản phẩm, dịch vụ sẽ có một mức trọng số khác nhau, không phải tất cả đều như nhau). Chúng bao gồm giao thông, thực phẩm và chăm sóc y tế. Chỉ số CPI được tính bằng cách lấy sự thay đổi giá của từng mặt hàng trong giỏ hàng hóa được xác định trước và tính trung bình dựa trên trọng số tương đối của chúng trong cả giỏ. Giá đang được xem xét là giá bán lẻ của từng mặt hàng mà người dân thanh toán thực hiện mua hàng.

 

Những thay đổi trong chỉ số CPI được sử dụng để đánh giá những thay đổi về giá cả liên quan đến chi phí sinh hoạt, khiến nó trở thành một trong những số liệu thống kê được sử dụng thường xuyên nhất để xác định các giai đoạn lạm phát hoặc giảm phát. Việc tính toán CPI ở Việt Nam do Tổng cục Thống kê đảm nhiệm.

 

Chỉ số giá bán buôn

Chỉ số WPI là một thước đo lạm phát phổ biến khác, nó đo lường và theo dõi những thay đổi về giá hàng hóa trong chuỗi hoạt động trước khi bán lẻ tới tay người tiêu dùng. Mặc dù các mặt hàng WPI khác nhau giữa các quốc gia, nhưng chúng chủ yếu bao gồm các mặt hàng ở cấp độ nhà sản xuất hoặc bán sỉ. Ví dụ, nó bao gồm giá bông cho bông thô, sợi bông, hàng bông xám và vải bông.

 

Mặc dù nhiều quốc gia và tổ chức sử dụng chỉ số WPI, nhưng nhiều quốc gia khác, bao gồm cả Việt Nam, sử dụng một biến thể tương tự được gọi là chỉ số giá sản xuất (Producer Price Index – PPI) .

 

Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá sản xuất là một nhóm chỉ số đo lường sự thay đổi trung bình của giá bán mà người sản xuất hàng hóa và dịch vụ trung gian trong nước nhận được theo thời gian. PPI đo lường sự thay đổi giá cả từ phương diện của người bán và khác với chỉ số CPI – đo lường sự thay đổi giá cả từ phương diện của người mua.

 

Công thức đo lường lạm phát

Các biến thể nêu trên của chỉ số giá có thể được sử dụng để tính giá trị lạm phát giữa hai tháng (hoặc năm) cụ thể. Mặc dù rất nhiều công cụ tính toán lạm phát được thiết kế sẵn có mặt trên nhiều cổng thông tin và trang web tài chính, nhưng tốt hơn hết là bạn nên biết về phương pháp luận cơ bản để đảm bảo độ chính xác và hiểu rõ các phép tính. Về mặt toán học,

 

Tỷ lệ lạm phát (theo phần trăm) = (Giá trị chỉ số CPI cuối / Giá trị CPI đầu) * 100

 

Giả sử bạn muốn biết sức mua của $10.000 đã thay đổi như thế nào trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 1975 đến tháng 9 năm 2018. Người ta có thể tìm thấy dữ liệu chỉ số giá trên nhiều cổng thông tin dưới dạng bảng biểu. Từ bảng đó, chọn số liệu CPI tương ứng cho hai tháng nhất định. Đối với tháng 9 năm 1975, nó là 54,6 (giá trị CPI đầu) và vào tháng 9 năm 2018, nó là 252,439 (giá trị CPI cuối). Thay vào công thức sẽ có:

 

Tỷ lệ lạm phát phần trăm = (252.439 / 54.6) * 100 = (4.6234) * 100 = 462.34%

 

Vì bạn muốn biết $10.000 từ tháng 9 năm 1975 sẽ trị giá bao nhiêu vào tháng 9 năm 2018, hãy nhân tỷ lệ lạm phát với số tiền đó để nhận được giá trị đô la sau thay đổi:

 

Thay đổi về giá trị đô la = 4.6234 x 10.000 đô la = 46.234,25 đô la

 

Điều này có nghĩa là 10.000 đô la vào tháng 9 năm 1975 sẽ trị giá 46.234,25 đô la. Về cơ bản, nếu bạn mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ (như được bao gồm trong định nghĩa CPI) trị giá 10.000 đô la vào năm 1975, thì cùng một giỏ đó bạn phải trả 46.234,25 đô la vào tháng 9 năm 2018.

Ưu điểm và Nhược điểm của Lạm phát

 

Lạm phát có thể là một điều tốt hoặc xấu, tùy thuộc vào bạn góc nhìn và sự thay đổi tỷ lệ lạm phát diễn ra nhanh chóng như thế nào.

 

Ưu điểm

Các cá nhân có tài sản hữu hình (như tài sản hoặc hàng hóa dự trữ) được định giá bằng đồng nội tệ của họ có thể cho rằng lạm phát làm tăng giá trị tài sản của họ, và họ có thể bán chúng với tỷ giá cao hơn.

 

Lạm phát thường dẫn đến sự đầu cơ bằng cách đầu tư vào các dự án rủi ro cao và của các cá nhân đầu tư vào cổ phiếu công ty, vì họ mong đợi lợi nhuận cao hơn lạm phát. Mức lạm phát tối ưu thường được đề xuất để khuyến khích chi tiêu ở một mức độ nhất định thay vì tiết kiệm. Nếu sức mua của tiền giảm theo thời gian, thì có thể có động cơ lớn hơn để chi tiêu ngay bây giờ thay vì tiết kiệm và chi tiêu sau này. Điều này có thể làm tăng chi tiêu, thúc đẩy các hoạt động kinh tế trong một quốc gia. Một cách tiếp cận cân bằng được cho là giúp giữ giá trị lạm phát trong một phạm vi mong muốn và tối ưu.

 

Nhược điểm

Người mua tài sản không hài lòng với lạm phát, vì họ sẽ phải bỏ ra nhiều tiền hơn để sở hữu tài sản. Những người nắm giữ tài sản bằng đồng nội tệ, chẳng hạn như tiền mặt hoặc trái phiếu, có thể không thích lạm phát, vì nó làm hao mòn giá trị thực của tài sản họ nắm giữ. Do đó, các nhà đầu tư muốn bảo vệ danh mục đầu tư của mình khỏi lạm phát nên xem xét các loại hàng rào chống lạm phát, chẳng hạn như vàng, hàng hóa và Quỹ tín thác đầu tư bất động sản (REITs). Trái phiếu được điều chỉnh theo lạm phát là một lựa chọn phổ biến khác cho các nhà đầu tư để kiếm lợi nhuận từ lạm phát.

 

Tỷ lệ lạm phát cao và dễ thay đổi có thể tạo ra những khoản chi phí lớn cho nền kinh tế. Tất cả các doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng đều phải tính đến những tác động của việc giá cả nói chung tăng lên trong các quyết định mua, bán và lập kế hoạch của họ. Điều này tạo thêm một nguồn bất ổn cho nền kinh tế, bởi vì họ có thể đoán sai về tỷ lệ lạm phát trong tương lai. Thời gian và nguồn lực dành cho việc nghiên cứu, ước tính và điều chỉnh hành vi kinh tế dự kiến ​​sẽ tăng mức giá lên, thay vì các nguyên tắc cơ bản về kinh tế thực tế, điều này chắc chắn tương ứng với một khoản chi phí cho toàn bộ nền kinh tế.

 

Ngay cả một tỷ lệ lạm phát thấp, ổn định và dễ dự đoán, mà một số người coi là tối ưu, vẫn có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng trong nền kinh tế, do tiền mới đi vào nền kinh tế bằng cách nào, ở đâu và khi nào. Bất cứ khi nào tiền và tín dụng mới đi vào nền kinh tế, nó luôn nằm trong tay của các cá nhân hoặc công ty kinh doanh cụ thể, và quá trình điều chỉnh mức giá đối với mức cung tiền mới diễn ra khi họ chi tiêu số tiền mới và nó luân chuyển từ tay người này sang người khác và từ tài khoản này sang tài khoản khác thông qua nền kinh tế.

 

Lạm phát đẩy một số giá hàng hóa, dịch vụ lên trước và đẩy các giá hàng hóa, dịch vụ khác lên sau đó. Sự thay đổi tuần tự của sức mua và giá cả (được gọi là hiệu ứng Cantillon) có nghĩa là quá trình lạm phát không chỉ làm tăng mức giá chung theo thời gian mà còn làm sai lệch giá cả, tiền lương và tỷ suất sinh lợi tương đối. Nói chung, các nhà kinh tế học hiểu rằng sự biến dạng của giá tương đối khỏi trạng thái cân bằng kinh tế là không tốt cho nền kinh tế, và các nhà kinh tế Áo thậm chí còn tin rằng quá trình này là động lực chính của các chu kỳ suy thoái trong nền kinh tế.

pros

Ưu điểm

  • Dẫn đến giá trị bán lại của tài sản cao hơn
  • Mức lạm phát tối ưu khuyến khích chi tiêu
cons

Nhược điểm

  • Người mua phải trả nhiều tiền hơn cho các sản phẩm và dịch vụ
  • Thiết lập một mức giá cao hơn cho nền kinh tế
  • Thúc đẩy một số giá hàng hóa, dịch vụ tăng lên trước và tiếp tục kéo theo giá hàng hóa, dịch vụ khác tăng lên theo sau đó

Kiểm soát lạm phát

 

Cơ quan quản lý tài chính của một quốc gia gánh vác trách nhiệm quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Nó được thực hiện bằng cách triển khai các biện pháp thông qua chính sách tiền tệ, đề cập đến các hoạt động của ngân hàng trung ương hoặc các ủy ban khác nhằm xác định quy mô và tốc độ tăng cung tiền.

 

Sự ổn định về giá — hoặc mức lạm phát tương đối ổn định — cho phép các doanh nghiệp lập kế hoạch cho tương lai vì họ biết những gì sẽ xảy ra. Cục dự trữ liên bang Mỹ FED tin rằng điều này sẽ tạo ra tối đa công việc trong nền kinh tế, được xác định bởi các yếu tố phi tiền tệ biến động theo thời gian và do đó có thể thay đổi. Vì lý do này, Fed không đặt ra mục tiêu cụ thể về việc làm tối đa, và nó chủ yếu được xác định bởi đánh giá của người sử dụng lao động. Việc làm tối đa không có nghĩa là không có tỷ lệ thất nghiệp, vì tại bất kỳ thời điểm nào cũng có một mức độ biến động nhất định khi mọi người nghỉ việc và bắt đầu công việc mới.

 

Các cơ quan quản lý tiền tệ cũng thực hiện các biện pháp đặc biệt trong điều kiện khắc nghiệt của nền kinh tế. Ví dụ, sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Fed của Hoa Kỳ đã giữ lãi suất gần bằng 0 và theo đuổi một chương trình mua trái phiếu được gọi là nới lỏng định lượng (Quantitative Easing – QE). Có nhiều lý do phức tạp khiến QE không dẫn đến lạm phát hoặc siêu lạm phát, mặc dù lời giải thích đơn giản nhất là bản thân của việc suy thoái đã là một môi trường giảm phát và việc nới lỏng định lượng hỗ trợ tác dụng của nó.

 

Do đó, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đã cố gắng giữ lạm phát ổn định ở mức khoảng 2% mỗi năm. Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) cũng đã theo đuổi việc nới lỏng định lượng tích cực để chống lại giảm phát trong khu vực đồng euro, và một số nơi đã trải qua thời kỳ lãi suất âm, do lo ngại rằng giảm phát có thể tồn tại trong khu vực đồng euro và dẫn đến trì trệ kinh tế.

 

Phòng ngừa rủi ro lạm phát

 

Cổ phiếu được coi là hàng rào tốt nhất chống lại lạm phát, vì sự tăng giá cổ phiếu bao gồm cả tác động của lạm phát. Vì việc bổ sung cung tiền trong hầu hết các nền kinh tế hiện đại xảy ra khi tín dụng ngân hàng bơm vào hệ thống tài chính, nên phần lớn tác động tức thời lên giá cả xảy ra đối với các tài sản tài chính được định giá bằng đồng nội tệ, chẳng hạn như cổ phiếu.

 

Ngoài ra, tồn tại các công cụ tài chính đặc biệt mà người ta có thể sử dụng để bảo vệ các khoản đầu tư chống lại lạm phát. Chúng bao gồm Trái phiếu chính phủ chống lạm phát (Treasury Inflation-Protected Securities – TIPS)- trái phiếu kho bạc có rủi ro thấp được điều chỉnh theo lạm phát trong đó số tiền đầu tư chính được tăng lên theo tỷ lệ phần trăm của lạm phát.

 

Vàng cũng được coi là hàng rào chống lại lạm phát, mặc dù điều này không phải lúc nào cũng đúng như vậy khi nhìn vào các trường hợp trong quá khứ.

 

Các ví dụ cực đoan về lạm phát

 

Vì tất cả các loại tiền tệ trên thế giới đều là tiền pháp định, nên cung tiền có thể tăng nhanh chóng vì lý do chính trị, dẫn đến mức giá cả tăng nhanh chóng. Ví dụ nổi tiếng nhất là siêu lạm phát tại Cộng hòa Weimar của Đức vào đầu những năm 1920.

 

Các quốc gia đã chiến thắng trong Thế chiến thứ nhất yêu cầu Đức bồi thường, khoản tiền này không thể được thanh toán bằng tiền giấy của Đức, vì đây là giá trị đáng ngờ do vay nợ của chính phủ. Đức đã cố gắng in tiền giấy, mua ngoại tệ và dùng tiền đó để trả nợ.

 

Chính sách này đã dẫn đến sự mất giá nhanh chóng của đồng mark Đức và siêu lạm phát, kéo theo sự phát triển. Người tiêu dùng Đức đã phản ứng với chu kỳ bằng cách cố gắng tiêu tiền của họ càng nhanh càng tốt, vì họ hiểu rằng số tiền đó sẽ ngày càng ít giá trị hơn nếu họ giữ lâu hơn. Ngày càng có nhiều tiền tràn vào nền kinh tế, và giá trị của nó giảm mạnh đến mức người ta dán giấy tường bằng những tờ tiền vô giá trị. Tình huống tương tự đã xảy ra ở Peru vào năm 1990 và Zimbabwe trong năm 2007–2008.

Những câu hỏi thường gặp

Nguyên nhân nào gây ra lạm phát?

Có ba nguyên nhân chính gây ra lạm phát: lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy và lạm phát nội sinh. Lạm phát do cầu kéo đề cập đến tình huống không có đủ sản phẩm hoặc dịch vụ được sản xuất để theo kịp nhu cầu, làm cho giá của chúng tăng lên.

 

Mặt khác, lạm phát do chi phí đẩy xảy ra khi chi phí sản xuất sản phẩm và dịch vụ tăng lên, buộc các doanh nghiệp phải tăng giá.

 

Cuối cùng, lạm phát nội sinh (đôi khi được gọi là “vòng xoáy giá cả – tiền lương” ) xảy ra khi người lao động yêu cầu mức lương cao hơn để theo kịp với chi phí sinh hoạt tăng. Điều này lại khiến các doanh nghiệp phải tăng giá để bù đắp chi phí tiền lương đang tăng lên, dẫn đến một vòng lặp tự tăng cường của tiền lương và giá cả.

Lạm phát là tốt hay xấu?

Lạm phát quá nhiều thường được coi là có hại cho một nền kinh tế, trong khi lạm phát quá ít cũng được coi là có hại. Nhiều nhà kinh tế ủng hộ mức lạm phát từ thấp đến trung bình, khoảng 2% mỗi năm.

 

Nói chung, lạm phát cao hơn gây hại cho những người tiết kiệm vì nó làm xói mòn sức mua của số tiền họ đã tiết kiệm. Tuy nhiên, nó có thể mang lại lợi ích cho người đi vay vì giá trị được điều chỉnh theo lạm phát của các khoản nợ chưa thanh toán sẽ giảm dần theo thời gian.

Ảnh hưởng của Lạm phát là gì?

Lạm phát có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế theo một số cách. Ví dụ: nếu lạm phát làm cho đồng tiền của một quốc gia giảm giá, thì điều này có thể có lợi cho các nhà xuất khẩu bằng cách làm cho hàng hóa của họ có giá cả phải chăng hơn khi được định giá bằng đồng tiền của các quốc gia khác.

 

Mặt khác, điều này có thể gây hại cho các nhà nhập khẩu bằng cách làm cho hàng hóa sản xuất ở nước ngoài trở nên đắt hơn. Lạm phát cao hơn cũng có thể khuyến khích chi tiêu, vì người tiêu dùng sẽ hướng đến việc mua hàng nhanh chóng trước khi giá của chúng tăng hơn nữa. Mặt khác, những người tiết kiệm có thể thấy giá trị thực của khoản tiết kiệm bị xói mòn, hạn chế khả năng chi tiêu hoặc đầu tư của họ trong tương lai.

PiggyyPedia VN

Chia sẻ bài viết này: