Tổng hợp ý chính cần nhớ
- Quỹ đầu tư chỉ số là một danh mục đầu tư cổ phiếu hoặc trái phiếu được thiết kế để mô phỏng thành phần và hiệu suất của chỉ số thị trường tài chính.
- Các quỹ đầu tư chỉ số có chi phí và lệ phí thấp hơn các quỹ đầu tư chủ động (actively managed funds).
- Các quỹ đầu tư chỉ số tuân theo chiến lược đầu tư thụ động.
- Các quỹ đầu tư chỉ số tìm cách để khớp với rủi ro và lợi nhuận của thị trường dựa trên lý thuyết rằng về lâu dài, thị trường sẽ hoạt động vượt trội hơn bất kỳ khoản đầu tư đơn lẻ nào.
Cách thức hoạt động của Quỹ đầu tư chỉ số
“Đầu tư theo chỉ số” là một hình thức quản lý quỹ thụ động. Thay vì một nhà quản lý danh mục đầu tư quỹ chủ động chọn cổ phiếu và xác định đúng thời điểm của thị trường (nghĩa là chọn chứng khoán để đầu tư và lập chiến lược về thời điểm mua và bán chúng), thì người quản lý quỹ đầu tư chỉ số xây dựng một danh mục đầu tư mà lượng nắm giữ phản ánh chứng khoán của một chỉ số cụ thể. Ý tưởng là bằng việc mô phỏng thành phần của chỉ số (toàn bộ thị trường chứng khoán hoặc một phân khúc lớn của nó) thì quỹ cũng sẽ có hiệu suất khớp với hiệu suất của chỉ số.
Có một chỉ số và một quỹ đầu tư chỉ số cho hầu hết mọi thị trường tài chính đang tồn tại. Ở Hoa Kỳ, các quỹ đầu tư chỉ số phổ biến nhất theo dõi S&P 500. Nhưng nhiều chỉ số khác cũng được sử dụng rộng rãi, bao gồm:
- Chỉ số toàn thị trường Wilshire 5000 – chỉ số chứng khoán lớn nhất của Hoa Kỳ
- Chỉ số MSCI EAFE – bao gồm các cổ phiếu nước ngoài từ Châu Âu, Châu Úc và Viễn Đông
- Chỉ số trái phiếu tổng hợp của Bloomberg Hoa Kỳ theo dõi tổng thị trường trái phiếu
- Chỉ số Nasdaq Composite được tạo thành từ 3000 cổ phiếu niêm yết trên sàn giao dịch Nasdaq
- Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones (DJIA) bao gồm 30 công ty vốn hóa lớn
Ví dụ, một quỹ đầu tư chỉ số theo dõi DJIA sẽ đầu tư vào cùng 30 công ty lớn và thuộc sở hữu đại chúng được bao gồm trong chỉ số đó.
Danh mục đầu tư của các quỹ đầu tư chỉ số chỉ thay đổi đáng kể khi các chỉ số chuẩn của chúng thay đổi. Nếu quỹ tuân theo một chỉ số có trọng số, thì các nhà quản lý của quỹ có thể định kỳ cân bằng lại tỷ lệ phần trăm của các chứng khoán khác nhau để phản ánh tỷ trọng của chứng khoán trong chỉ số chuẩn. Tính trọng số là một phương pháp cân bằng sự ảnh hưởng của các khoản nắm giữ đơn lẻ trong một chỉ số hoặc một danh mục đầu tư.
Thông tin thêm: Nhiều quỹ ETF chỉ số sao chép các chỉ số thị trường tương tự cách mà các quỹ tương hỗ chỉ số hoạt động, và các quỹ ETF này thanh khoản tốt hơn và tiết kiệm chi phí hơn cho một số nhà đầu tư.
Quỹ đầu tư chỉ số so với Quỹ đầu tư chủ động
Đầu tư vào quỹ đầu tư chỉ số là một hình thức đầu tư thụ động. Chiến lược đối lập là đầu tư chủ động, như được thực hiện trong các quỹ tương hỗ đầu tư chủ động – những quỹ có danh mục đầu tư bằng việc chọn chứng khoán, xác định thời điểm thị trường mà các nhà quản lý đã mô tả ở trên.
Chi phí thấp
Một lợi thế chính mà các quỹ chỉ số có được so với các quỹ đầu tư chủ động là tỷ lệ chi phí quản lý thấp hơn. Tỷ lệ chi phí của quỹ – còn được gọi là tỷ lệ chi phí quản lý – bao gồm tất cả các chi phí hoạt động như thanh toán cho cố vấn và người quản lý, phí giao dịch, thuế và phí kế toán.
Bởi vì các nhà quản lý quỹ đầu tư chỉ số chỉ đơn giản là sao chép hoạt động của một chỉ số chuẩn, nên họ không cần dịch vụ của các nhà phân tích nghiên cứu và những người khác hỗ trợ trong quá trình lựa chọn cổ phiếu. Các nhà quản lý quỹ đầu tư chỉ số không thường xuyên giao dịch các khoản nắm giữ, do đó có phí giao dịch và phí hoa hồng thấp hơn. Ngược lại, các quỹ đầu tư chủ động có số lượng nhân viên lớn hơn và thực hiện nhiều giao dịch hơn, làm tăng chi phí kinh doanh.
Các phụ phí của việc quản lý quỹ được phản ánh trong tỷ lệ chi phí của quỹ và được thanh toán bởi các nhà đầu tư. Do đó, các quỹ đầu tư chỉ số “rẻ” thường có chi phí thấp hơn 1% — điển hình là 0.2% đến 0.5%, và một số công ty đưa ra tỷ lệ chi phí thậm chí còn thấp hơn 0.05% hoặc thấp hơn nữa – so với chi phí cao hơn nhiều mà các quỹ đầu tư chủ động yêu cầu, thường là 1 % đến 2.5%.
Tỷ lệ chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động chung của quỹ. Các quỹ đầu tư chủ động, với tỷ lệ chi phí thường cao hơn, sẽ tự động gặp bất lợi so với các quỹ đầu tư chỉ số và phải “vật lộn” để theo kịp các điểm chuẩn về lợi nhuận tổng thể.
Lợi nhuận tốt hơn?
Những người ủng hộ cho luận rằng các quỹ thụ động đã thành công trong việc hoạt động vượt trội so với hầu hết các quỹ tương hỗ đầu tư chủ động. Thật vậy, phần lớn các quỹ tương hỗ không vượt qua được điểm chuẩn hoặc chỉ số thị trường rộng lớn. Ví dụ: trong thời kỳ 5 năm kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2020, khoảng 75% các quỹ vốn hóa lớn của Hoa Kỳ đã tạo ra lợi nhuận thấp hơn mức lợi nhuận của S&P 500, theo dữ liệu của SPIVA Scorecard từ S&P Dow Jones Indices.
Mặt khác, các quỹ được quản lý thụ động không cố gắng đánh bại thị trường. Thay vào đó, chiến lược của họ tìm cách để khớp với lợi nhuận và rủi ro tổng thể của thị trường, trên lý thuyết rằng thị trường luôn thắng.
Chiến lược quản lý thụ động cho ra hiệu suất tích cực có xu hướng đúng về lâu dài. Với khung thời gian ngắn hơn, các quỹ tương hỗ hoạt động hiệu quả hơn. SPIVA Scorecard chỉ ra rằng trong khoảng thời gian một năm, chỉ có khoảng 60% quỹ tương hỗ vốn hóa lớn hoạt động kém hơn chỉ số S&P 500. Nói cách khác, khoảng 2/5 trong số đó đánh bại chỉ số này trong thời hạn ngắn. Ngoài ra, trong các hạng mục khác, quỹ đầu tư chủ động chiếm vị trí ưu thế. Ví dụ, hơn 86% quỹ tương hỗ vốn hóa trung bình đã đánh bại điểm chuẩn của chúng là Chỉ số S&P MidCap 400 Growth trong suốt một năm.
Ưu điểm
- Giảm rủi ro thông qua đa dạng hóa
- Tỷ lệ chi phí thấp
- Lợi nhuận trong dài hạn
- Lý tưởng cho các nhà đầu tư thụ động, các nhà đầu tư mua và giữ
- Giảm thuế cho các nhà đầu tư
Nhược điểm
- Dễ bị ảnh hưởng bởi sự biến động và sụp đổ của thị trường
- Thiếu linh hoạt
- Không có yếu tố con người
- Lợi nhuận bị hạn chế
Ví dụ về Quỹ đầu tư chỉ số
Quỹ đầu tư chỉ số đã xuất hiện từ những năm 1970. Sự phổ biến của chiến lược đầu tư thụ động, sự hấp dẫn của chi phí thấp và thị trường giá lên (bull market) kéo dài đã kết hợp để khiến các quỹ này tăng vọt trong những năm 2010. Đối với năm 2021, theo Morningstar Research, các nhà đầu tư đã rót hơn 400 tỷ đô la vào các quỹ đầu tư chỉ số trên tất cả các loại tài sản. Trong cùng thời kỳ, các quỹ đầu tư chủ động đã chứng kiến 188 tỷ đô la trong dòng tiền chảy ra.
Một quỹ khởi đầu cho tất cả, được thành lập bởi John Bogle, chủ tịch Vanguard vào năm 1976, vẫn là một trong những quỹ tốt nhất về hiệu suất dài hạn tổng thể và chi phí thấp. Quỹ chỉ số Vanguard 500 đã theo dõi chỉ số S&P 500 một cách trung thực, về thành phần và hiệu suất. Tính đến quý 2 năm 2022, Vanguard’s Admiral Shares (VFIAX) đã công bố mức lợi nhuận tích lũy trung bình trong 10 năm là 237% so với 238.1% của S&P 500, cho thấy sai lệch so với chỉ số tham chiếu (tracking error) là rất nhỏ. Tỷ lệ chi phí là 0.04% và đầu tư tối thiểu là 3000 đô la.